THẤP THOÁNG LỜI KINH
...
AN LẠC
HẠNH
..
TÁC GIẢ:
B.S. ĐỖ HỒNG NGỌC
..
Chẳng phải « Thân tâm thường an lạc » là niềm mơ
ước của tất cả chúng ta đó sao, là câu chúc ngọt ngào khi người ta gặp gỡ nhau
đó sao ? Thân an thì tâm lạc và Tâm an thì thân lạc. Có an mới có lạc và
có lạc mới có an. Con muốn xin được chỉ dạy cách an tâm. Học trò hỏi.
Thầy đáp, được, đưa tâm ngươi đây ta an cho. Con tìm mãi chẳng thấy tâm đâu cả.
Vậy ta đã an tâm cho ngươi rồi đó vậy. Thầy đáp.
..
Không
tìm thấy tâm đâu cả chính là đã an tâm, bởi vì « vô tâm mạc vấn
thiền » (Trần Nhân Tông) mà! Khi Bồ-tát lặn lội trong cõi Ta-bà, “du hí
thần thông” trong cõi Ta bà để cứu độ chúng sanh không phải lúc nào mọi sự cũng
suôn sẻ nên làm sao để có được « an lạc » là một điều kiện tiên
quyết...
...
Cái thời Phật truyền đạt Pháp
Hoa quả là không dễ dàng gì. Những điều Phật nói ra ở thời Pháp Hoa này không
dễ được « nghe nhận ». Thính chúng nhiều người đã không tin, nhiều
người đã bỏ đi. Nhiều vị A-la-hán khi được thọ ký mừng đến chảy nước mắt. Thế
nhưng các Bồ-tát « tùng địa dũng xuất » vẫn luôn ở đó, lắng nghe và tin
nhận, thệ nguyện hi sinh để nói lên « sự thật », những điều Phật đã
dạy hôm nay, để « khai thị » cho chúng sanh « ngộ nhập »
được Tri kiến Phật, cho nên Phật ân cần dặn dò về cái gọi là “An lạc
hạnh”, để sống sao cho được an lạc, vì có từ bi với mình thì mới từ bi được với
người, vì mình có an lạc thì mới… làm được pháp sư, giúp người khác an lạc.
..
Người
đặt câu hỏi bấy giờ không phải là Dược Vương hay Thường Tinh Tấn nữa… mà chính
là Văn Thù, một người “Trí”. Trí thì đoán trước được tình thế, biết những gì sẽ
xảy ra ở đời ác trược về sau!
..
“Thế
Tôn! Các vị Đại Bồ-tát ở đời ác sau, làm thế nào mà có thể nói kinh này?”. Dĩ nhiên để “có thể nói kinh này” thì phải ở nhà Như Lai,
mặc áo Như Lai rồi mới ngồi được tòa Như Lai, thế nhưng vẫn chưa đủ. Nỗi lo của
Văn Thù Bồ-tát đúng quá chớ! Bây giờ Phật còn đang sống sờ sờ đây, đang giảng
nói trực tiếp trong pháp hội long trọng trên núi Linh Thứu này mà nhiều người
còn chưa tìn, còn ngờ vực, huống chi sau này khi Phật đã Niết bàn, biết bao kẻ
có thể giả danh làm sằng bậy, gieo rắc mê tín dị đoan?
..
Cho
nên cái Phật cần bây giờ, trước khi nhập Niết-bàn, trước khi diệt độ là tìm
ngay lứa học trò mới, “dám” làm pháp sư, “truyền nhân” của Phật, sứ giả của Như
Lai. “Dám” bởi vì không dễ với những điều kiện Phật đưa ra, lại phải đương đầu
với không ít những cám dỗ, những gièm pha, phá hoại… trong thời mạt pháp. Lứa
học trò mới này không chỉ là tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, mà cả
những trai thiện gái lành… Và quan trọng là họ phải tự nguyện, bền chí, tinh
cần, hết lòng. Cũng vì thế, Phật chọn những Bồ-tát “tùng địa dũng xuất” thay vì
những Đại Bồ-tát từ phương xa đến. Bởi vì cần có cái xuất phát từ chung một
“thổ ngơi”, có cùng một nếp sống, nếp văn hóa bản địa may ra mới thu phục được
lòng người, mới tạo được niềm tin.
...
Trả
lời câu hỏi của Văn Thù “…ở đời ác sau, làm thế nào mà có thể nói kinh này?”,
Phật bảo: Phải an trụ trong bốn pháp:
1)
An trụ trong hành xứ và thân cận xứ.
2)
An trụ trong pháp Không,
nhìn ra cái “thật tướng” của mọi sự mọi vật.
3)
An trụ vào hạnh Tùy hỷ.
4)
An trụ vào lòng đại Từ đại Bi.
..
Hãy nói về “an trụ” vào lòng
đại Từ đại Bi trước: Nó không có gì lạ. Nó chính là “ở nhà Như Lai”. Thực sự ai
sống trong “nhà Như Lai” thì chắc chắn sẽ có lòng đại Từ đại Bi thôi, vì thấy
ra muôn loài đều “chung một mái nhà!”. Con sâu cái kiến, con khủng long, con
thằn lằn, rắn mối, sư tử cọp beo cá voi cá sấu cho đến con… người, nghêu sò ốc
hến, cũng đều “làm ra” từ một chất liệu. Cho nên không có “con” nào hơn
con nào. Đừng nghĩ rằng ta “ngon” hơn loài kiến loài sâu, con ong cái bướm. Còn
lâu! Mắt của loài ong có hằng trăm thủy tinh thể, nhìn khắp bốn phương tám
hướng, mũi của loài chó nhạy hơn loài người ngàn lần, tai dơi hơn ta nhiều lắm
chứ, ai bảo nó không từng “phản văn văn tự tánh” ? Sao dám nói loài người là
thông minh nhất trong muôn loài? Ai bảo chỉ có loài người mới có ngôn ngữ, âm
thanh, tiếng nói? Con công đực sao nó đẹp vậy? Sao nó múa may tuyệt vời vậy?
Con sư tử đực sao dựng bờm oai dũng vậy? Hồi hồng hoang, 4 tỷ năm trước,
chưa có tảo biển tạo ra oxy thì con người là “con” gì? ở đâu? Tại sao
sinh vật đơn bào kia cắt đôi thân thể mình thành hai con? Tại sao con bọ ngựa
kia sau khi giao hợp thì chết ngay để hiến thân làm thức ăn cho con, và con cá
hồi kia, tại sao sau khi đẻ trứng xong, “hoàn thành nhiệm vụ” bèn tự hủy thân
mình? Mọi loài hùng hục tranh nhau “sinh bệnh lão tử” trên cõi Ta-bà này, chỉ
là một chấm nhỏ của vũ trụ mênh mông kia không phải đều đáng thương đáng quý
sao?
..
“Văn
Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai, ở trong
các kinh thời là bực trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở
ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó”.
..
Pháp thứ ba mà Phật bảo phải an
trụ để có “an lạc hạnh” là Tùy hỷ. Tùy hỷ thiệt không dễ chút nào! Tùy hỷ khó
vì con người khó tránh lòng ganh tị, ghen ghét nhau…
“Chớ
ôm lòng ganh ghét, dua dối, chớ khinh mắng người, chớ vạch chỗ hay chỗ dở, cũng
chẳng nên hý luận, luôn thuận theo pháp, chẳng buông lung, chẳng biếng trễ”.
..
Chỗ an trụ thứ hai là phải thấy
được “nhứt thiết pháp không”,
phải thấy được thật tướng vô tướng cái đã rồi mới nói gì thì nói, thuyết gì thì
thuyết. Tâm thông thì thuyết thông. Vô ngại biện tài. Chẳng những thấy Không mà
còn thấy không cả Không. Chân không mà diệu hữu. Từ đó mà có “không lường,
không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhơn duyên mà có, từ điên đảo mà
sanh”.
..
Chỗ an trú đầu tiên, có lẽ cũng
là điều căn bản nhất, cụ thể và thực tế nhất để có được an lạc mà làm “Pháp sư”
một cách chân chính ấy là lối sống, lối ứng xử sao cho vừa hòa dịu, nhẫn nhục,
khéo thuận lại vừa cương nghị bất khuất, biết lánh xa mùi phú quý vinh hoa, xa
bả lợi danh rủng rỉnh!
“Hành
xứ”, ấy là nhẫn nhục, hòa dịu, khéo thuận bởi lòng đã « quán tướng như
thật các pháp », đã sống không phân biệt nên “không vụt chạc, mà
cũng chẳng kinh sợ”. Dù bên trong đã đầy đủ pháp Không, đã thấy biết
duyên sanh, vô ngã, đã sống trong thật tướng vô tướng rồi thì không có gì phải
kinh sợ nữa, dù vậy, nếu không biết nhu hòa, nhẫn nhục thì vẫn sanh sự cho sự
sanh!
Những
lời ân cần mà nghiêm khắc đó tuy đã vài ngàn năm trước mà như mới hôm nay,
trong thời buổi nhộn nhịp ngựa xe, xênh xang mũ lọng này!
..
« Thân
cận xứ » chính là để tạo một môi trường thuận lợi cho hoạt động “độ sinh”
giúp mình và giúp đời của Bồ-tát. “Thế nào là chỗ thân cận của Đại
Bồ- tát ? », Phật dạy:
...
« Chẳng
gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng… ». Dĩ nhiên không ai cấm gần. Không gần thì làm sao cảm hóa,
« độ sanh » được. Nhưng, vấn đề là gần cách nào ? Gần mà dua
nịnh để kiếm chác quyền lợi thì khác với gần như Bồ Đề Đạt Ma gặp Lương Vũ Đế…
...
« Chẳng
gần gũi kẻ viết sách thế tục ca ngâm ». Sao lạ vậy ? Bởi vì từ ngàn xưa, họ vốn là nòi tình,
đắm đuối, kiêu căng, hợm hĩnh, hý luận và xung đột hơi nhiều, bản ngã hơi
to ! Nhưng cũng tại ta thôi. Duy Ma Cật sẵn lòng gặp gỡ đám vũ nữ ca múa
đó thôi....
Viết
sách thế tục ca ngâm thì dễ « điên đảo », dễ « mộng
tưởng », trong khi Bồ- tát thì phải « viễn ly điên đảo mộng
tưởng » ? Không sao! Vấn đề nằm ở bản lãnh Bồ-tát. Bồ-tát có thể
« bất trụ vô vi bất tận hữu vi », thõng tay vào chợ nếu thực sự có đủ
bản lãnh.
...
« Chẳng
gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau đánh nhau... ». Không dễ! Không gần gũi ngoài đời thì gần gũi
qua phim ảnh sách báo cũng không kém phần nguy hiểm.
...
« Chẳng
gần gũi bọn hạng người sống với nghề ác… ».
..
Tóm lại:
Vào
được « hành xứ » này
Và
« thân cận xứ » đó
Thời
lúc nói kinh này
Không có lòng e sợ.
..
TÁC GIẢ: ĐỖ HỒNG NGỌC
..
(Nguồn: Trang nhà BS Đỗ Hồng
Ngọc)
..