Thursday, May 27, 2010

chuyện con thạch sùng

.
SÔNG HƯƠNG
(tranh lụa của Hoàng Ngọc Ấn)
....
CHUYỆN CON THẠCH SÙNG...
..
 Nhật xảy ra một câu chuyện có thực 100% như thế này:
Có một người vì muốn sửa lại nhà nên dỡ tường ra; tường nhà kiểu kiến trúc Nhật thường đế một tấm gỗ ở giữa, hai bên trát xi măng, nhưng thực chất bên trong để rỗng.
...
Khi anh ta dỡ tường ra, phát hiện có một chú thạch sùng đang ngủ ở trong đó, đuôi nó bị đóng vào tường bởi một chiếc đinh được đóng từ ngoài vào trong. Anh này thấy tình cảnh đó vừa thấy thương thạch sùng vừa thấy tò mò, anh ta chăm chú quan sát chiếc đinh, trời ạ! đây là chiếc đinh được đóng khi xây nhà 10 năm trước. Rút cục là có chuyện gì thế này nhỉ? Chú thạch sùng này đã mắc kẹt trên tường mà vẫn sống được trọn 10 năm! Sống được 10 năm trong bức tường tối, thật không đơn giản chút nào. Có gì đó bất thường thì phải? Anh ta tiếp tục nghĩ ngợi, đuôi nó bị đóng chặt, không thể xê dịch được, thế nó đã sống được nhờ vào điều gì mười năm qua? Anh ta quyết định chưa sửa công trình của mình vội, muốn quan sát xem chú thạch sùng này đã ăn gì? Anh muốn nghiên cứu tìm hiểu xem sao. Một lát sau, không biết từ đâu bò ra một chú thạch sùng khác, miệng nó ngoặm miếng thức ăn… Ồ! Anh ta lặng người đi. Thế này là sao nhỉ? Vì một bạn thạch sùng bị đinh đóng vào đuôi không thể đi lại được, một bạn thạch sùng khác đã kiếm tìm thức ăn mớm cho bạn trong suốt mười năm qua.
Tôi nghe xong thấy xúc động vô cùng và thực sự cũng không nghĩ thêm về mối quan hệ của chúng nữa.
..
Các bạn ạ, cùng với sự phổ cập của máy tính trong xã hội con người, tốc độ những thông tin mà chúng ta có được từ người thân, bạn hữu, đồng nghiệp, … ngày một nhanh hơn, nhưng khoảng cách giữa con người với con người chúng ta với nhau phải chăng cũng ngày một gần nhau hơn ? … Cho nên đừng bao giờ từ bỏ những người mà chúng ta yêu thương nhé!
..
Hãy gửi câu chuyện này tới mỗi người bạn bạn đã từng tiếp xúc trong cuộc đời này.
..
Hoàng Ngọc Ấn (ĐK67, C2) sưu tầm

Monday, May 24, 2010

thơ Diên Hồng - tuổi dễ thương

Xin giới thiệu thơ Diên Hồng Hoài Mai Phương (ĐK67, B5, C2)
..
(hình: Internet)
.
TUỔI DỄ THƯƠNG
 ..
Tôi yêu tuổi mười ba
Tóc thề thả thướt tha
Áo trắng bay lả lướt
Tung tăng bước chân ngà
.
Tôi yêu tuổi mười ba
Ước mơ vừa chớm mộng
Cuộc đời mới nở hoa
Và biết nhớ "người ta"
.
Tôi yêu tuổi mười ba
Suốt ngày vui hát ca
Mến bạn bè cùng lớp
Yêu cô giáo thiết tha
.
Năm mươi năm sau đó
Trở lại tuổi mười ba
Gặp bạn bè thuở nhỏ
Lại yêu mến thiết tha
.
Sống lại tuổi mười ba
Cùng nhau chung hồi niệm
Tình thân mến chan hòa
.
Diên Hồng (Hoài Mai Phượng)
.
(Tặng các bạn học Đồng Khánh 67 lớp Đệ Thất B5).
.
..
.

Saturday, May 15, 2010

Nhà Nghèo


.
NHÀ NGHÈO
.
Có một người đàn ông thật giàu có sang trọng, ông ta cùng vợ con sống tại một biệt thự tráng lệ trong thành phố, một hôm ông ta dẫn đứa con trai của mình về một vùng quê để đứa bé nhìn thấy những người nghèo khổ tại nơi đây sống như thế nào. Họ đến một nông trại của gia đình nghèo nhất trong vùng, ông ta tự nghĩ rằng đây là một cách để dạy con biết quý trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình, đấy là một cách rất tốt cho đứa con bé bỏng của mình nhìn thấy một bài học thực tế..
Sau khi ở lại vài hôm và tìm hiểu đời sống nơi này, hai cha con trở về nhà. Trên đường về người cha mỉm cười nhìn con trai của mình và hỏi:
- Qua chuyến du lịch này con hãy nói cho ba biết con cảm thấy thế nào ?
- Ba ơi… Thật là tuyệt vời, con về sẽ kể hết tất cả cho mẹ nghe!
Người cha hỏi thêm:
- Con đã thấy những người nghèo khổ họ đã sống như thế nào rồi à ?
- Thưa ba, con đã thấy!
- Thế thì con đã rút ra được điều gì trong chuyến đi này?
Đứa bé không ngần ngại đáp ngay:
- Thưa ba, con thấy nhà chúng ta chỉ có một con chó, họ có đến 4 con. Nhà mình có một cái hồ bơi giữa sân, họ lại có một con sông dài bất tận. Chúng ta đưa những chiếc đèn lồng vào sân vườn, họ lại có những ngôi sao lấp lánh vào ban đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân thì họ có cả chân trời. Chúng ta chỉ có một miếng đất để ở thì họ lại có cả những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải có người phục vụ, còn họ lại phục vụ người khác. Chúng ta phải mua thực phẩm, còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở nhau!

Đến đây người cha không nói gì cả, đứa bé ôm lấy người cha và nói thêm:
- Ba ơi !…. Con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi....
..
(sưu tầm)

thơ Tôn Nữ Nam Giao (1)

Xin giới thiệu một số bài trong tập thơ MOMG MANH MỘT CHÚT TÌNH của nhà thơ Tôn Nữ Nam Giao, xuất bản tại Saigon năm 2006. 
......
....
Bìa trước tập thơ
.......
Tôn Nữ Nam Giao là bút hiệu làm thơ của chị Tôn Nữ Hiếu, cựu nữ sinh Đồng Khánh.
Chị Tôn Nữ Hiếu về dạy môn Việt Văn tại trường Đồng Khánh vào những năm ngay sau khi ra trường Sư phạm Huế (trước năm 75)....
...
RÊU PHONG
.....
Mùa thu đến, lòng em xao động lạ 
Nhớ người yêu xưa lứa tuổi trắng trong
Nhìn chiếc lá vàng chao mình rơi xuống
Như chiếc thuyền trôi lướt biển rêu phong
...
Giọt nắng vàng trên bờ xanh rêu ấy
Bừng sống lên khi mưa gió rì rào
Trời sáng lạnh, rêu phong càng xanh thẳm
Như thách thức vời đời - lắm gian lao
.... 
Mỗi buổi chiều ngắm rêu mờ sương phủ
Giữa không gian xám nhạt của trời thu
Lòng dạt dào nhớ về ngày tháng cũ
Nơi có anh yêu dấu, tuổi xuân thời
....
Cuộc đời ơi, rêu phong là sự sống
Là quá khứ của thời trẻ ngóng trông
Là dĩ vãng êm đềm trôi mộng ảo
Là tuổi thơ chan chứa cuộc tình nồng
....
Màu xanh rêu, màu Huế đô thương nhớ
Nơi gợi về bao kỷ niệm trường xưa
Đồng Khánh hỡi, thành rêu mờ Đại nội
Tình yêu xưa, ru hồn em thẫn thờ
. ..
..
28 / 11 / 2004

Tôn Nữ Nam Giao
...
..
...
Bìa sau tập thơ
TÌM NHAU
......
Tìm nhau trên trang thư
Xóa nhòa đi nỗi nhớ
Tìm nhau trong hơi gió
Thoáng chút tình thơ ngây
.. 
Tìm nhau trong hơi thở
Nỗi nhớ càng chơi vơi
Tìm nhau trong hư vô
Cõi vô thường vô định
..
Tìm nhau trong cõi mộng
Tan biến vào hư không
Tìm nhau trong cuộc sống
Tháng ngày dài mênh mông
..
Ôi! Cuộc tình mong manh
Như mây bay gió thoảng
Như nắng trôi hững hờ
Như giọt sương long lanh.
...
Tôn Nữ Nam Giao
..
......
XÚC CẢM TUỔI THƠ
..
Xúc cảm thay tuổi thơ ngây bé bỏng
Đi chân trần giẫm lên cỏ quê hương
Màu cỏ non xanh, giọt sương bỡ ngỡ
Như được truyền sinh khí mới thân thương
…...
Cỏ non ơi, trên bờ sông Hương ấy
MỗI chiều về khe khẽ bước trinh nghuyên
Những gót chân nhẹ lướt cỏ êm đềm
Một vùng cỏ mãi xanh - lời cầu nguyện
....…
Đồng Khánh thân yêu - cỏ xanh ước vọng
Cây lá sân trường hòa điệu âm vang
Cỏ non xanh sáng, nguồn sống mới dâng tràn
Thế hệ tương lai – ngày mai rạng rỡ
....…. 
Ôi! Cảnh đẹp quê hương trăn trở mãi
Nào cỏ nào hoa, nỗi nhớ xoay vòng
Rưng rức nhớ để rồi ôm nỗI nhớ
Nhớ thuở hoa niên, nhớ tuổi tròn trăng
….…
Tôn Nữ Nam Giao
04/01/2005

Chùa Xưa

Bài viết của thầy Hà Thúc Hoan, cựu giáo sư Trường Đồng Khánh 

..(Nguồn: Internet)
CHÙA XƯA
...
Có những ngôi Chùa xưa chỉ còn tồn tại trong sử sách hay thơ văn vì đã bị giặc ngoại xâm hủy hoại, thiên tai tàn phá hay chịu sự đổi thay theo lẽ vô thường. Một trong những cổ tự có số phận như thế là chùa Đọi đã được ghi tả qua bài thơ Đường luật dưới đây của Nguyễn Khuyến:
..
“Già yếu xa xôi bấy đến nay,
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay !
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,
Sư cụ nằm chung với khói mây.
Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây.
Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.”
.....
Bằng ngôn ngữ súc tích và thi vị cổ kính của bài Đường thi, Tam nguyên Yên Đỗ khéo vẽ nên cảnh “chùa xưa”, làm sống lại một nét đẹp đã trở thành truyền thống của Phật giáo Việt Nam và văn hoá nước nhà.
..
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà nho hiển đạt, đỗ Tam nguyên, từng làm quan đến chức Tổng đốc. Với tinh thần tổng hợp, hoà đồng của người trí thức phương Đông, dù có một thời gian dài học tập và xuất chính theo quan điểm nhập thế của đạo Khổng, cũng giống như Nguyễn Công Trứ và nhiều nho sĩ khác, Nguyễn Khuyến tiếp nhận dễ dàng tư tưởng xuất thế của đạo Phật và chùa Đọi trở thành nơi chốn quen thân để tác giả đi về.
..
Chùa Đọi, tên Hán Việt là Sùng Thiên Diên Linh, được xây dựng trên núi Long Đọi thuộc huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam, cách quê hương Nguyễn Khuyến là huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam chừng 10 cây số. Bài Chơi núi Long Đọi  của Nguyễn Khuyến có cặp đề và cặp thực diễn tả nỗi ngậm ngùi khi thấy chùa Đọi không còn như xưa :
...
“Hai mươi năm cũ lại về đây,
Phong cảnh nhà chiền vẫn chửa khuây.
Chiếc bóng lưng trời am các quạnh,
Mảnh bia thủa trước bể dâu đầy.”
..
Có thể nói khi sáng tác bài Cảnh chùa Đọi này, Nguyễn Khuyến cũng đã xa cách “nhà chiền” một khoảng thời gian dài hàng chục năm như thế. Cho nên khi gặp lại, nhà thơ không khỏi cảm thấy “buồn thay” vì tình người đối với cảnh thì “chửa khuây” nhưng cảnh đối với người thì đã đổi thay nhiều để trở nên quạnh quẽ :
...
“Già yếu xa xôi bấy đến nay,
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay !”
..
Hai câu đề (câu 1 và câu 2) cho biết Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ này trong những năm tháng cuối đời, khi tác giả đã “già yếu”, đang sống cô đơn, vì “Bạn già lớp trước nay còn mấy / Chuyện cũ mười phần chín chẳng như.”
....
Theo thi pháp của bài thơ Đường, hai câu thực (câu 3 và câu 4) có nhiệm vụ nêu rõ đầu đề, diễn đạt ý chính của bài thơ là Cảnh chùa Đọi :
....
“Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,
Sư cụ nằm chung với khói mây.”
..
Hình ảnh ngôi “chùa xưa” ở đây thể hiện rõ nét đặc trưng đã tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc của kiến trúc Việt Nam nói riêng và Đông phương nói chung. Đó là sự hoà hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình xây dựng của con người. Không giống nhà thờThiên Chúa giáo được người phương Tây xây cất với cái tháp chuông cao vút đơn độc vươn lên trời xanh như muốn chinh phục tất cả, chế ngự tất cả, ngôi chùa Phật giáo “ở lẫn cùng cây đá”, cùng tồn tại bên cạnh những biểu hiện khác của tạo vật để chung sống, hoà đồng với tất cả. Kiến trúc của ngôi chùa cổ Việt Nam phù hợp với lý tưởng sống của người Phật tử là vị tha vô ngã, quý trọng hoà bình, yêu thương đến cả cầm thú và cỏ cây.
..
Ngôi chùa, dù được tạo thành bởi nghệ thuật kiến trúc tối ưu và bằng những vật liệu hảo hạng, cũng chỉ là một khối gạch ngói vô tri, gỗ đá không có sức sống hay sắt thép cứng cỏi, lạnh lùng. Các tượng Phật dù to lớn, quý giá và đẹp đẽ đến đâu cũng chỉ là những biểu tượng. Sức sống, cái hồn của chốn già lam chính là phạm hạnh bậc chân tu… Với chùa Đọi trong thơ Nguyễn Khuyến, đó là “Sư cụ nằm chung với khói mây”. Theo nghĩa đen, chúng ta có thể hiểu vì chùa Đọi được xây cất trên núi cao nên sư ông trú trì đã sống “chung với khói mây” . Hiểu theo nghĩa bóng, qua hình tượng “khói mây”, chúng ta tìm thấy đạo hạnh cao dày, lý tưởng sống xuất gia thoát tục của vị sứ giả chân chính của Đức Như Lai. ..
Chùa thì “ở lẫn” với cây và đá, sư thì “nằm chung” với khói và mây. Với hai hình ảnh gắn kết này, Nguyễn Khuyến muốn nói rõ mối quan hệ mật thiết giữa cuộc sống con người và thế giới tự nhiên. Cũng vì lẽ này, đi chùa đối với nho sĩ Nguyễn Khuyến còn là một cơ hội để sống giao hoà với cây cỏ xanh tươi và đất trời cao rộng, như những lần nhà thơ đến với “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” để ngắm “nước biếc”, “lá vàng” và “trời xanh” (4), hoặc “Chống gậy lên cao bước chẳng chồn” (5) để thăm núi An Lão.
......
Cũng vì mục đích đi chùa để vãng cảnh như đã nói trên nên ở hai câu luận ( câu 5 và câu 6) Nguyễn Khuyến không miêu tả chi tiết cảnh chùa Đọi mà hướng cái nhìn xuống thấp để thưởng thức cảnh đẹp của làng quê trùng điệp một màu xanh là xanh trúc, xanh nước, xanh dâu :
....
“Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây.”
...
Từ ghép “dặm thế” tạo cho bức tranh “chùa xưa” cái thi vị cổ kính, đồng thời biểu hiện tâm trạng thoát tục xuất trần của Nguyễn Khuyến khi lên núi cao để viếng cảnh chùa. Hai đại từ phiếm chỉ “đâu” và “ai” vừa tạo nét nghĩa nhoè cho thơ, vừa góp phần thể hiện cảm xúc thanh thoát, mơ màng của người ngắm cảnh. Ngôi chùa cổ thanh tịnh, vị sư già đạo hạnh và cảnh đẹp quê hương đã đem lại những giây phút an lạc và thảnh thơi cho vị lão thần liêm khiết đã sớm từ bỏ bổng lộc của triều đình để về quê nhưng vẫn còn nặng lòng với thế sự.
.
Ở hai câu kết, Nguyễn Khuyến trở lại với chủ đề Cảnh chùa Đọi để miêu tả một chi tiết đã được chọn lọc, một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên không khí tôn nghiêm mà không kém phần thanh thoát thơ mộng nơi cửa thiền. Đó là tiếng chuông chùa êm đềm, thong thả, ngân nga :
...
“Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.”.
....
Vào buổi trưa, tiếng chuông chùa từ xa “vẳng” lại, chẳng những không làm cho cảnh vật trở nên ồn ào náo nhiệt mà còn làm cho phong cảnh nơi đây thêm phần im vắng, tĩnh mịch. Đó là âm thanh của im lặng. Âm thanh này không quấy rầy giấc ngủ của mục tử mà góp phần làm cho giấc nồng của mục đồng trở nên sâu lắng hơn.....Hai câu kết này vừa đóng vừa mở:đóng lại bức tranh vẽ cảnh chùa và mở ra cho chúng ta những cảm nghĩ miên man về hạnh phúc của con người và con vật khi môi trường sống còn được gìn giữ. Rừng chưa bị huỷ diệt nên người chăn trâu có thể tìm được giấc ngủ thần tiên dưới bóng mát của cây xanh. Cây xanh chưa bị chặt phá thì đất không bị xói mòn, thảm cỏ tươi non vẫn còn đó để trâu nhẩn nha gặm cỏ. Và trâu có nhẩn nha gặm cỏ trên “sườn non” thì người giữ trâu mới có thể ngủ một giấc ngon lành dưới “gốc cây”.
..
Đọc hai câu thơ gợi mà không tả này, chúng tôi nhớ lại cảnh trong một phim truyện nói về số phận người dân sinh sống trên vùng đất đang bị sa mạc hoá ở Mễ Tây Cơ. Ở đó không có bóng mát của cây cao, chỉ có những cây xương rồng trơ trụi và những bụi cỏ nhỏ mọc rải rác, thưa thớt, cao không quá móng chân cừu. Kiếm ăn trên vùng đất sỏi đá khô cằn ấy, những đàn gia súc không đi mà chạy, phải chạy thật nhanh thì mới có thể gặm được một số lượng cỏ đủ no cho một ngày. Đàn gia súc chạy qua và để lại một đám bụi mù mịt, sau lớp bụi mờ dần dần hiện rõ hình ảnh chàng mục tử người Mễ với chiếc mũ rộng vành. Giữa cảnh bao la vắng vẻ của vùng đất rộng đang trở thành hoang mạc, để làm nguôi khuây nỗi cô đơn của chàng trai mới lớn, mục đồng cất tiếng ca trầm buồn mà vang vọng bày tỏ lòng thương nhớ rừng cây, đồng cỏ và đồng thời nói lên nỗi xót thương cho thân phận của mình :
..
“Hỡi rừng cây !
Hỡi đồng cỏ !
Hãy cho ta bóng mát làm lọng che đầu cho nàng,
Hãy cho ta bãi cỏ xanh lót dưới chân người đẹp,
Hãy cho ta bông hoa đầu mùa kết thành tràng hoa ngày cưới …”
....
Có làm một liên hệ ngoài văn bản như thế chúng ta mới thấu hiểu hạnh phúc tuyệt vời của con trâu và chàng mục tử trong bài thơ Cảnh chùa Đọi của Việt Nam. Từ đó chúng ta nhận biết việc giữ gìn cỏ cây nói riêng và bảo vệ môi trường sống nói chung là quan trọng và khẩn thiết như thế nào
....
Nói chuyện “chùa xưa” không thể không nhắc đến “chùa nay”.

Tết nguyên đán này, trên mọi miền đất nước, hàng triệu Phật tử Việt Nam đã đi chùa, thắp nhang thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn. Trong số hàng ngàn tự viện ấy, ấn tượng nhất là những ngôi chùa Huế có khuôn viên rộng rãi rợp bóng cây xanh và những thiền viện do Hoà thượng Thanh Từ sáng lập, các đệ tử khai phá, xây dựng trên cả ba miền đất nước. Tại nhiều quốc gia trên thế giới như Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Úc, Canada, Nga, Ba Lan, Ukraina,v.v. nhiều ngôi chùa Việt đã được xây cất để trở thành địa chỉ tâm linh và văn hoá của hàng vạn người Việt Nam xa xứ. Thật đáng vui mừng khi thấy sự phát triển về số lượng của những ngôi chùa Việt ! Thế nhưng, vào thế kỷ V trước Tây lịch, khi chưa xuất hiện hình ảnh ngôi chùa, Phật tổ đã chứng đắc đạo vô thượng dưới gốc cây bồ đề và nhập niết bàn trong trong bóng mát của hàng cây sa la. Ngôi chùa dù nguy nga tráng lệ đến đâu cũng chỉ là phương tiện hỗ trợ cho sự tu tập của Phật tử. Phật dạy kẻ chấp phương tiện không khác gì người đã qua được sông nhờ bè mà vẫn còn đội cái bè trên đầu để tiếp tục cuộc hành trình! Cho nên, khi chốn già lam đã xuống cấp mà không đủ duyên để dựng chùa lớn thì nên hoan hỉ xây chùa nhỏ, để tránh tình trạng việc thi công phải kéo dài nhiều năm vì thiếu tịnh tài, còn vị trú trì thì phải “nằm chung” với gạch gỗ, xi măng, sắt thép và đủ loại phiền não.
...
Hà Thúc Hoan 

22.01.10

Sunday, May 9, 2010

Tưởng nhớ nhà thơ Hoàng Cầm


....
Vĩnh biệt thi sĩ Hoàng Cầm...

Nhà thơ Hoàng Cầm, tác giả của bài thơ bất hủ Bên Kia Sông Đuống, đã qua đời lúc 9 giờ sáng ngày 6 tháng 5 tại Hà Nội, Việt Nam. Nhà thơ sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tên thật là Bùi Tằng Việt, quê xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Ông đổ tú tài toàn phần 1940 và bước vào nghề dịch sách. Bút hiệu của ông được đặt theo tên của vị thuốc quý Hoàng Cầm. Cũng trong thời gian này ông bắt đầu tham gia các hoạt động chống Pháp vì lòng yêu nước. Tháng 4-1955, ông cùng các nhà thơ Trần Dần, Đỗ Nhuận, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa”, nêu yêu cầu cần có tự do sáng tác. Không lâu sau đó, ông là một trong những tác giả bị đảng Cộng Sản kết án trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Ông rút lui ra khỏi hội Văn Nghệ Việt Nam và sống cuộc đời ẩn dật dù năm đó chỉ 48 tuổi. Sau lần té ngã cách đây 2 năm sức khỏe ông yếu đi và dành phần lớn thời gian để nghỉ ngơi tại căn phòng nhỏ ở Hà Nội. Ông trở bịnh vào ngày 2 tháng 5, và vài ngày sau, tác giả của Lá Diêu Bông vĩnh viễn ra đi. .....
...
.Sau đây là  vài bài thơ bất hủ của Cố Thi sĩ tiền bối Hoàng Cầm:
.....
VÔ ĐỀ
...
Biển xanh ánh phật mười phương
Hương sen dậy sáng
Ôm trắng nghìn mây
Vạn kiếp dãi dầu
Oan nghiệt rên la bi thống
Nước mắt dàn bốn đại dương đau
Chiến tranh ư?
Bạo lực cơ cầu
Ðói hành hạ
Rét dày vò số kiếp
Người với người cắn nhau đau tội nghiệp
Tình với tình biền biệt những lìa xa
..
Hoàng Cầm......
..
TÌNH CẦM
..
Nếu anh còn trẻ như năm cũ
Quyết đón em về sống với anh
Những khi chiều vàng phơ phất đến
Anh đàn em hát níu xuân xanh.
..
Có mây bàng bạc gây thương nhớ
Có ánh trăng vàng soi giấc mơ
Có anh ngồi lại so phím cũ
Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.
..
Nhưng thuyền em buộc trên sông Hận
Anh chẳng quay về với trúc tơ
Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt
Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.
..
Nếu có ngày nào em quay gót
Lui về thăm lại bến Thu xa
Thì đôi mái tóc không còn xanh nữa
Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha.
.....
Hoàng Cầm....
...........
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
..
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
...
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
......
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
....
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
..
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
..
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
...
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?
..
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
.....
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
..
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
...
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
– Con là ai ? — Con ở đâu về ?
..
Hé một cánh liếp
– Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi… cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”
..
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
..
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
..
Hoàng Cầm
Việt Bắc, tháng 4, 1948
....
(N T sưu tầm)