.
.
(nguồn: Internet)
MẸ VÀ CON
.
Từ văn phòng xuống lớp, tôi phải qua một khoảng sân nắng còn bốc
bụi mù mịt. Học sinh đã vào lớp, nhưng những bước chân chim nhảy nhót đùa giỡn
mấy phút trước đó, vẫn còn lưu dấu trong không khí. Tôi ngửi thấy mùi hăng hăng
của cát nóng, mùi ngai ngái của lá me khô, và thoang thoảng đây đó mùi khét nắng
của những mái đầu tóc hoe. Tôi cười một mình. Cát nhỏ rào rạt dưới chân.
Gót guốc cắm sâu vào lòng đất, cắm thật sâu, nhưng ăn thua gì, khẽ nhấc một
chút, chiếc guốc đã nhẹ hẩng. Giơ lên cao hơn lệ thường, tôi ấn mạnh guốc xuống
cát lún chút nữa. Nhưng tôi vẫn bước. Đôi gót lãng du. Vì, đúng là đôi gót lãng
du, thích chạy nhảy quanh co, đùa cợt, quên hết cả giờ giấc như lũ học trò của
tôi.
.
Nắng thêu hoa lên
mặt sân. Cát ươm nồng không khí. Bụi bay lãng đãng nhẹ nhàng... Tôi chợt vui vô
cớ. Tôi hát, tôi hát nho nhỏ, một bài gì đó đầu Ngô mình Sở nhưng chắc là một
khúc vui vì nhịp nhanh và ríu rít như tiếng chim sẻ trên cành bàng phía trước
văn phòng. Lũ học trò đang lao xao trong kia. Cái lũ quỉ. Đã dặn không biết bao
nhiêu lần là khi cô chưa kịp tới, phải ngồi vòng tay lại, không ai được nói
chuyện, không ai được đập bàn xô ghế. Liên toán trưởng phải có phận sự lên đứng
trên bục cao nhìn xuống phía dưới lớp ghi hết tên đứa nào không cho đôi môi kịp
làm da non. Cứ biên hết tên lũ quỉ đó cho cô. Nhiều lần thằng liên toán trưởng
phân vân. Nhưng thưa cô tụi nó không sợ em. Em mới mở miệng, tụi nó đã ê xuống
đi. Tôi đã mách nước cho thằng liên toán trưởng: "Thế này nhé, em
được cả lớp bầu lên chứ phải chuyện chơi đâu. Em được cô tin cậy, như vậy em
phải cho tụi nó thấy cái oai của em chứ. Em đứng thế này này. Đứng thật thẳng.
Hay tay chắp sau lưng. Ngực hơi trỡn tới một chút. Em nhìn đăm đăm không chớp
mắt xuống phía dưới, ráng đừng có nhảy. Em nhìn quét một lượt từ phía phải qua
phía trái, rồi lại nhìn từ trái qua phải..."
.
Lúc tôi đến cửa lớp,
bọn quỉ đang chọc ghẹo nhau, la hét chí chóe trong khi liên toán trưởng hí hoáy
ghi gì đó lên bảng. Thằng bé chắc nó áp dụng bài học của mình, sau khi nghiêm
nghị ra uy đã cương quyết ghi tên bọn mất trật tự lên bảng cho cô phạt. Tôi
bước vào, cả lớp đứng dậy đồng loại, im phăng phắc, không nhúc nhích, y như
những pho tượng trong cái nhà mồ xi măng vuông vức sáu thước bề ngang, sáu
thước bề dọc. Liên toán trưởng ngượng nghịu bối rối, nửa muốn đưa tay xoá hàng
chữ trên bảng nửa muốn trở về chỗ mình. Tôi đọc thấy hàng chữ nguệch ngoạc
"yêu cầu các trò..." Chết rồi! Yêu cầu! Yêu cầu! Làm lớn mà không dám
ra uy, còn xuống giọng năn nỉ, yêu cầu các trò im lặng không thì cô la. Tôi bắt
đầu ra dấu cho Tuấn về chỗ, chậm rãi bước lên ngồi trên bàn thầy. Đứa nào đó
trong đội trực đã cắm vào bình hoa hai cái bông trang và mấy nhánh lá xanh.
Chiếc khăn phủ bàn bằng ni lông trắng thật ngay ngắn, phẳng phiu. Đám học trò
của tôi đáng yêu biết bao nhiêu. Tại sao tôi có thể gắt gỏng với những tâm hồn
thơ ngây, những nét mặt non nớt nầy cho được. Tại sao có lần tôi đã ôm đầu mà
thét lên trước mặt hiệu trưởng: "Anh cho tôi đi. Làm ơn cho tôi thoát khỏi
cái địa ngục nầy. Toàn là lũ quỉ sứ, ồn như cái chợ và khét nắng không chịu
nổi". Tôi ngắm hai cái bông trang trong bình, nói với học trò:
"Các em lấy vở
viết chính tả".
Như một phép lạ, tiếng
ồn ào vỡ như thác nước. Cả tụi nhao nhao:
"Cô chưa cho ngồi
xuống mà cô!"
Tôi cười giả lả, phác
tay bảo:
"Ờ, cô quên, thôi
các em ngồi xuống đi. Môn đầu tiên là viết chính tả phải không?"
"Dạ, chính tả
cô".
Tôi quay xuống hỏi:
"Em nào xung
phong lên viết bảng".
.
Dường như không có đứa
nào không đưa tay xung phong. Lần nào cũng vậy! Không hiểu được lên bảng, ngọ
ngoạy phía sau cái màn che vải xanh phai màu để nắn nót viết những hàng chữ
xiên xẹo lên dốc xuống ghềnh có cái gì hấp dẫn, đến giờ chính tả, đứa nào cũng
tranh nhau giơ cao tay cho cô chọn. Một ý nghĩ ranh mãnh chợt đến, tôi nói:
"Cô biết chọn ai
bây giờ! Thôi, cô chỉ chọn những em đẹp trai thôi!"
.
Quá nửa lớp rụt rè rút
tay lại, không nhí nhỏm như trước nữa. Mấy đứa biết rõ mình đẹp trai, hết sức
tự tin, đứng thẳng người lên, đưa tay cao lên hơn. Thấy vẻ tiu nghỉu của mấy
đứa xấu, tôi hối hận. Sao lại tạo cho mấy đứa bé ngây thơ nầy sự thắc mắc vô
lối về chuyện đẹp xấu, gieo cho chúng niềm oán trách hờn tủi đối với số phận,
đối với Thượng đế? Mình có điên không đây? Trời đâu đã nắng bao nhiêu, và gió
nam chưa thổi mà Nhàn! Mày có điên không Nhàn! Tôi bối rối, bảo học trò bỏ tay
xuống, giải thích cho chúng hiểu:
"Cô nói đùa đó.
Cô thương các em đồng đều, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, xấu đẹp gì hết.
Các em đừng có mặc cảm".
Lũ trẻ ngơ ngác không
hiểu. Thằng Tuấn giơ tay hỏi:
"Thưa cô, mặc cảm
là sao hở cô?"
Mày lại lầm lẫn nữa
rồi Nhàn! Lũ trẻ lớp bốn có hiểu gì đâu mà nói chuyện mặc cảm không mặc cảm!
Tôi không biết phải giải nghĩa thế nào, vừa nói bâng quơ, vừa tìm ý.
"Mặc cảm hả! Mặc
cảm là... là mặc cảm. Chờ các em lớn hơn cô mới giải thích được. Cô cho ví dụ
như thế nầy nhé. Như em Trần Xuân Đức ngồi chỗ cửa sổ kìa".
Thằng Đức giật mình
không hiểu cô muốn gọi mình làm gì, sợ sệt đứng dậy. Cả lớp reo lên thúc dục:
"Đức vồ! Đức vồ!
Cô gọi kìa!"
..
Tôi cười bảo Đức ngồi
xuống, rồi chờ cho cả lớp yên lặng mới nói:
"Các em đặt cho
Đức cái biệt hiệu Đức vồ, vì Đức có cái trán lồi hơn thiên hạ một chút. Đầu
tiên Đức đâu có để ý, phải không. Nhưng về sau nghe các bạn chế nhạo, em chột
dạ, cứ vuốt vuốt cho mái tóc trước trán che lấp phía trước, che lấp cả mắt
luôn".
Cả lớp lại cười ồn ào.
Tôi hỏi tiếp:
"Như vậy là Đức
có mặc cảm".
Thằng Minh giơ tay hỏi:
"Thưa cô, như vậy
mặc cảm là cái gì xấu trên thân thể mình phải không cô?"
.
Những đứa khác cũng
còn thắc mắc nhưng sợ không dám hỏi, nên chú ý nghe lời tôi giải đáp. Tôi nói:
"Không phải thế.
Minh hiểu lầm rồi. Thôi cô lấy một ví dụ nữa nhé. Tại sao em cứ đội mũ hoài vậy
Minh? Vào lớp mát em đội mũ, ra sân có bóng mát, em cũng đội mũ. Cô vào lớp, em
mới chịu bỏ mũ ra".
Minh bẽn lẽn, trả lời
ngập ngừng:
"Mấy bữa nay trời
nắng quá cô".
Cả lớp cười ồn lên.
Đứa nào đó nói lớn:
"Không phải, Minh
gáo nói xạo!"
Tôi làm mặt nghiêm để
tái lập trật tự. Tôi nói:
.
Không khí trong phòng có vẻ ngột ngạt, vì sự nghiêm nghị, thẹn
thùng của tôi. Mãi vui tôi đã vô tình gợi cho Minh một điều em cố quên: Cái
nghèo. Lũ học trò thấy vẻ mặt tôi, không dám vui đùa tự nhiên la hét nữa. Để
xoá tan nỗi khổ tâm của Minh, tôi gắng cười nói, san sẻ bớt mặc cảm của em cho
mấy đứa khác:
"Mà thôi, chuyện đó có gì đáng buồn đâu. Em nào lại không
có cái hơi lạ, hơi khác thường cần phải che giấu bạn bè. Này nhé, trong lớp
nầy, cô thấy thiếu gì! Có em cả tháng trời không chịu tắm, cổ có ba vòng kiềng
đất đen. Mỗi lần cô gọi lên đọc bài cứ co ro thụt cổ thun vai cho cô khỏi trông
thấy. Ai đó?"
Cả lớp lấy lại niềm vui ban đầu, trả lời lớn:
"Đồng đất".
"Có em không hiểu vì sao cứ áy náy mãi về cái quần, cái nịt
của mình. Mỗi lần cô kêu lên bảng, trước khi gân cổ lấy giọng đọc bài em đó
luôn luôn đưa tay lên nịt rán kéo lên".
"Bình Xách Quần".
"Có em vì không nghe lời cha mẹ, cả ngày chạy rong ngoài
đường, nắng đốt đen thui cả mặt mũi, chân tay".
"Tương Ông Táo".
"Thôi, mất thì giờ nhiều rồi. Cô chọn một em lên viết chính
tả nhé. Cô chọn một em không mặc cảm".
Tôi giơ tay chỉ lên trần, xoay người đảo một vòng như cái quay
bán kẹo kéo trước cổng trường. Cả lớp yên lặng chờ đón. Tôi xoay qua xoay lại
hai ba vòng, cuối cùng chỉ vào Tùng.
Cả lớp cười rồ, reo lớn:
"Tùng Bi Li! Tùng Bi Li!"
Tùng hãnh diện ra mặt, chạy nhanh lên bục, kéo mạnh cái màn che
hết tấm bảng gỗ sơn màu lá cây. Che kín xong, Tùng ngồi xuống chui ra ngoài,
đến bàn tôi lấy viên phấn. Tôi bảo cùng cả lớp:
"Các em viết cẩn thận nhé. Nhất là dấu hỏi, dấu ngã. Lần
nầy em nào còn viết lầm hỏi ngã cô sẽ trừ một điểm chứ không phải trừ nửa điểm
như kỳ trước. Nhớ chưa?"
"Thưa cô, nhớ".
Chờ cho Tùng chui trở vào màn, tôi đọc:
"Chính vì con
Chính vì con mà người thợ xay bột..."
Tương Ông Táo láu táu hỏi:
"Bột viết C hay T cô?"
Tôi mắng át:
"Viết chính tả mà còn hỏi cô. Với lại hỏi gì mà đần vậy.
Bột viết C thành ra chữ gì?"
Bấy giờ cả lớp mới thấy cái ngớ ngẩn của Tương, ồ lên cười. Chờ
cho chúng im lặng trở lại tôi đọc tiếp:
"... mà người xay bột phải mặc quần áo đầy bột trắng xoá.
Chính vì con mà áo người hàng thịt nhuộm đỏ đầy những máu. Chính vì con mà nhà
nông bị cháy nắng, dày dạn gió mưa. Chính vì con mà người thợ máy phải đứng
trên đầu xe lửa, mà người lính phải chiến đấu ngoài biên thùy. Mỗi người trong
khi làm việc riêng của mình phải phục vụ được toàn thể đồng bào. Ngày nào mà
con đã hiểu mọi điều đó..."
.
Chờ cho học sinh viết
tiếp, tôi đưa mắt nhìn quanh lớp. Dước góc trái, thằng Viên ngồi cắn quản bút
không viết, nhìn lơ đãng ra phía hàng rào dây thép gai đan theo hình ô vuông.
Tôi hỏi:
"Viên, sao không
lo viết mà ngồi thừ ra đó thế?"
Viên giật mình cúi
xuống vở, nhưng vì không nghe câu trước nên phải quay sang hỏi đứa bên cạnh.
Thằng Đồng lắc đầu quầy quậy, lấy tay che kín trang vở. Thấy dáng Viên tội
nghiệp quá, tôi nhắc lại:
"... Ngày nào mà
con đã hiểu mọi điều đó, không những con sẽ kính trọng những người lao động ấy,
mà lại còn cố gắng để thành người có ích cho xã hội. Chấm hết. Cô đọc lại dò
nhé!"
..
Lúc chấm điểm cả lớp
đều khá cả, chỉ trừ có Viên. Xoá viết thành xoá; nhuộm thành nhượng; những
thành nhửng. Không thể chịu đựng được nữa. Tôi quát lớn:
"Học hành như vậy
hả? Đi học một hôm nghỉ hai ba hôm. Ngồi trong lớp chỉ lo ngóng chuyện ngoài
đường. Không muốn học nữa, thì nghỉ học đi, đừng vác mặt đến đây nữa".
Viên cúi gằm mặt xuống
bàn, vai so lại như run sợ vì không chịu đựng nổi những ánh nhìn thương hại,
khinh bỉ của bạn bè đổ dồn về phía mình. Hình như Viên có khóc, vì Viên đưa cổ
tay lên quệt nhiều lần ở mũi. Tôi vẫn giữ im lặng, để dằn mặt một học sinh lười
biếng và cảnh cáo những đứa khác. Không khí trong phòng lắng đọng, tù túng,
căng thẳng. May mắn, lúc bấy giờ, chuông báo hiệu giờ ra chơi giục giã, nô nức.
.
Chưa kịp cho học trò ra
sân, con Phương dạy bên lớp năm đã chạy đến trước cửa léo nhéo:
"Nhàn, ra tao nói
cái nầy!"
Tôi vờ không nghe thấy,
gắng làm mặt nghiêm bảo học trò:
"Các em khá lắm.
Thôi ra chơi đi. Không được chạy nhảy nhiều rách quần áo mẹ. Không được chọc
ghẹo đập lộn nhau nghe chưa!"
Lũ trẻ đồng thanh trả
lời:
"Nghe".
Tôi vừa phát tay, cả lớp
đã ùa ra khỏi phòng nực nội như đàn ong vỡ tổ. Phương vẫn kiên nhẫn đứng chờ
ngoài hiên. Tôi hỏi:
"Chuyện gì đó
bà?"
"Ra đây. Vui lắm.
Mày có biết chàng Tiêu hôm nay ăn mặc thế nào không?" Tôi miễn cưỡng đi
theo Phương. Tôi muốn nói với cô bạn đồng nghiệp: "Biết rồi. Khổ lắm! Nói
mãi!" Tiêu vừa đổi tới trường này sau khi được giải ngũ. Dáng người cao
lớn, vạm vỡ. Vai rộng. Mái tóc cắt ngắn và mầu da nâu, dấu tích của bao năm
binh nghiệp, khiến ở Tiêu toả ra một vẻ cường tráng, cương nghị của những chàng
giác đấu La Mã. Phương tíu tít hỏi thăm người nầy một ít, người kia một chút,
và chỉ trong vòng vài ngày sau đã biết rõ cuộc đời ái tình cự nghiệp của ông
thầy mới. Phương chê Tiêu kênh kiệu, chê Tiêu thô. Bộ đi đứng cứng nhắc, thiếu
vẻ nho nhã cần thiết. Chê Tiêu có đôi mắt lờ đờ, khác hẳn vẻ mơ màng của các
nam nhân vật tiểu thuyết tình cảm của Phương đọc suốt sáng, suốt chiều. Chê
Tiêu thiếu mái tóc óng ả nghệ sĩ của chàng tài tử Pháp mà Phương cắt báo xi nê
lồng vào bìa vở soạn bài. Nhưng tôi biết Phương quá rồi! Gương mặt xương xương
như bất cần của Phương như thêm một chút sinh khí xa lạ nào đó. Sáng nay Phương
có thoa chút son hồng trên đôi má, đôi môi ướt vaseline. Phương nói liên miên,
tôi chỉ nghe thấp thoáng, vì biết câu chuyện quanh quẩn bấy nhiêu. Nhưng Phương
không chịu buông. Thuý ở lớp ba lên chú ý ngay chiếc áo hoa của Phương, nhận
xét thật thà:
"Mày may áo mới hồi
nào đó? Khổ người mày, nét mặt mày mặc áo hoa lớn đâu có hợp".
Phương giận đến đỏ mặt.
Nhân cơ hội hai cô bạn cãi vã nhau về thời trang ăn mặc, tôi tìm lối thoát:
"Thôi, cho tao về
lớp một chút. Bỏ quên cái thẻ kiểm tra trong cái mu soa, sợ tụi học trò lục lạo
quăng mất".
Tôi bỏ đi. Cả Phương và
Thuý vẫn còn cãi một cách hăng hái. Bước vào cửa, tôi hết sức ngạc nhiên. Viên
vẫn ngồi ở chỗ cũ, hí hoáy vẽ gì đó lên bàn học. Tôi hỏi:
"Sao không ra chơi
hở Viên?"
Viên ngước lên, đôi mắt
còn thật buồn:
"Thưa cô, em không
thích. Ra nắng sợ đau".
Lối thưa gửi lễ phép của
Viên làm cho tôi cảm động. Tôi hỏi để giảng hoà:
"Khi nãy cô la, em
có buồn cô không?"
"Dạ không, cô la
đúng mà!"
Tôi đi xuống chỗ Viên,
ghé ngồi lên bàn học sinh thấp lè tè và sơn màu nâu. Tôi hỏi Viên, có hạ giọng
cho thật êm ái, hoà nhã:
"Cô hỏi thật. Tại
sao Viên lười biếng vậy? Em học khá lắm, nhanh nhẹn và thông minh lắm. Nhưng
mấy tháng nay, em đi học thất thường. Mà dù có đi, đến lớp ngồi thờ thẫn mất
hồn như con cá ươn. Lúc nãy, tại sao đang viết chính tả, em ngồi thừ nhìn ra
đường cái? Nhớ nhung gì ngoài đó?"
Tôi đưa tay vuốt tóc
Viên. Nó cảm động đến rơm rớm nước mắt. Tôi quay đi cho Viên khỏi thẹn và lấy
lại bình tĩnh, Viên trả lời:
"Em viết xong câu
chính tả cô đọc, ngửng lên nhìn tụi nó trong lớp có đứa ngoẽo đầu, có đứa mím
môi đến tức cười. Có đứa nằm soài trên mặt bàn. Bỗng nhiên em nghĩ: Đứa nào
cũng có Ba hết, trừ mình. Em buồn muốn khóc, không nghe tiếng cô đọc bài
nữa".
Tôi cảm thấy nghẹn ngào
trong cổ họng, sống mũi nhột nhạt. Tôi đã la oan cậu bé học trò bất hạnh của
tôi. Mùi khét nắng toả ra từ mái tóc rối của Viên, lối ăn mặc cẩu thả dơ dáy
của Viên, bàn tay dính đầy mực và những trang vở nhập nhoè chữ nghĩa của Viên
không còn làm tôi khó chịu nữa.
Tôi hỏi:
"Ba em mất lúc
nào?"
"Lâu rồi cô, cách
đây bốn năm năm. Lúc ấy bé Xíu mới được có tám tháng". Bé Xíu là em út của
Viên hả?"
"Dạ. Tụi nó sợ em
lắm. Thằng Trung học lớp hai dưới Mai Xuân Thưởng. Con Xíu phải ở nhà giữ em
cho má đi làm".
"Má em làm
gì?"
"Dạ làm thư ký
trong toà hành chánh. Má đi làm cả ngày thưa cô".
Tôi tìm được một cớ
chính đáng để khuyên răn Viên:
"Đấy em thấy không?
Má em ở vậy. Suốt ngày đầu tắt mặt tối để ráng nuôi con, lo miếng cơm manh áo
cho con đi học. Muốn mua cho em một quyển sách, muốn may cho em một cái áo, má
phải vất vả biết bao ngày. Viên không biết nghĩ, bỏ lớp trốn học đi bụi đời ngoài
đường là nghĩa lý gì! Má hi sinh cho Viên như vậy, nỡ nào Viên không thương
má..."
Tôi còn định nói nhiều,
thật nhiều. Tôi tưởng tượng Viên là Tường đứa con trai đầu của tôi. Sẽ có ngày
bé Tường lớn lên, bằng tuổi Viên. Sẽ có ngày tôi khóc đến đỏ hoe cặp mắt khi
hay tin bé Tường trốn học, la cà ngoài đầu đường góc chợ với lũ ma cô, ăn cắp.
Tôi sẽ nói với bé: "Tường không thương mẹ sao Tường. Tường không nghĩ lúc
mẹ dật dờ không ra người khi mang nặng thai con trên thân thể ốm yếu mảnh khảnh
của mẹ. Tường không nghĩ nỗi lo âu của mẹ, bồn chồn khi con khẽ ho, khắc khoải
khi con ấm mình đi tướt..." Tôi định nói, nói mãi nói hoài, nếu không nhìn
trở lại dáng ngồi của Viên. Viên gục đầu lên bàn học, cố dằn lắm, nhưng không
thể nào ngăn nổi những tiếng khóc ấm ức. Cuối cùng như một cơn nước lụt phá vỡ
bờ đê, Viên khóc oà. Tôi luống cuống hỏi:
"Sao thế Viên? Cô
có nói điều gì làm tủi thân em đâu. Sao thế Viên?"
.
* *
Suốt ba hôm nay, Viên
không đi học. Hôm đầu tôi nhìn về chỗ Viên ngồi, thấy trống, có cảm giác khó
chịu của một kẻ thất bại. Tôi đã quá tin ở sức mạnh lời nói của mình. Viên đã
khóc tức là đã ăn năn. Đứa con trai mười tuổi bất chấp mọi sự, ngồi khóc vùi
trước mặt bạn bè, tất nhiên lòng nó phải xúc động cao độ, đến nỗi niềm kiêu
hãnh chỉ là điều phù phiếm bá vơ. Trông cách Viên chăm chỉ viết tập, cẩn thận
làm tính đố, ngoan ngoãn vâng lời, tôi đã tin rằng Viên hối hận. Viên đã hiểu,
Viên biết Viên làm khổ mẹ. Viên ham chơi không nghĩ đến nỗi xót xa như muối đổ
vào lòng của người mẹ goá chắt chiu từng chục từng đồng để gắng nuôi con nên
người. Thấy Viên không đi học tôi bực mình. Hoá ra thằng bé vẫn chứng nào tật
nấy: giả vờ khóc đấy rồi, buổi trưa về, nhìn cái bảng quảng cáo phim chưởng loè
loẹt xanh đỏ trước rạp chiếu bóng, nghe tiếng nhạc dồn dập rộn rã từ loa phóng
thanh, tiếng gọi quyến rũ của phố phường vẫn đủ sức lôi mạnh Viên về con đường
cũ. Qua ngày sau, nhìn chỗ Viên ngồi tôi đâm ray rứt tự hỏi: Lỗi ở thằng bé hay
lỗi ở mình. Tuổi thơ hồn nhiên, sống bằng những sự việc trước mắt, lo ăn, lo
ngủ, lo chạy nhảy nô đùa, có bao giờ thắc mắc đến những vấn đề trừu tượng,
phiền nhiễu. Chính mình đã đưa Viên vào một thế giới khác, nhọc nhằn hơn, ảm
đạm hơn. Thế giới có những cơn lốc xoáy bụi mịt mù có những thác lũ cuồn cuộn
quấy đục dòng sông tuổi thơ. Mặc cảm. Phải rồi. Chính mình đã khiến Viên mang
nặng thêm một mặc cảm phạm tội, một gánh nặng làm còng chiếc lưng mềm, làm oằn
đôi vai nhỏ. Viên không chịu đựng được nữa. Viên thua cuộc. Trong nỗi thất vọng
Viên đâm liều, Viên nhủ thầm: Mình hư đốn quá mức rồi! Không còn có cách nào
cứu vãn được nữa. Mình đã xuống cùng tận của đáy sâu hôi thối và nhơ nhớp.
Thôi! Thà liều thả mình rơi xuống, vì đã đến nước này, có làm gì cũng chỉ là vô
ích, phí công.
.
Hết trách Viên, tôi lại
trách tôi. Tôi bực bội, cáu kỉnh vô cớ. Cả lớp mường tượng cảm thấy một mối
nguy hiểm thấp thoáng đâu đó, tự động giữ im lặng và nét mặt đứa nào cũng nơm
nớp, lo lắng trong lặng lẽ. Mấy ngày đó, ở nhà, thằng Tường và con Tí lại đau.
Tôi tưởng đang sống giữa địa ngục. Cho nên tôi vui mừng biết chừng nào, khi đến
sáng hôm thứ ba, vừa vào lớp được bao mươi phút thì một người đàn bà dẫn Viên
tới. Hôm ấy trời gió, hai cửa sổ và cửa lớn trông ra phía sân đều đóng im ỉm.
Nghe tiếng gõ, Tuấn nhanh nhẹn chạy ra mở cửa. Người đàn bà ấy đã đứng chờ sẵn
ngoài hiên, phía sau thằng Viên có thu mình cho nhỏ lại, ngượng ngập cúi đầu
khi tôi bước ra. Không chờ tôi hỏi, người đàn bà tự giới thiệu trước:
"Xin lỗi cô, tôi là
má của trò Viên".
Tôi không ngạc nhiên
chút nào, vì đã đoán được dễ dàng từ đầu. Những lời xã giao ban đầu, ca tụng sự
tận tuỵ của tôi và khung cảnh nhà trường, vừa vào tai này đã lọt qua tai kia,
bay đi theo gió. Tôi không nghe được gì, tò mò nhìn người mẹ của Viên. Không
hiểu sao tôi có ác cảm với bà ngay từ lúc mới gặp. Tôi chưa hề quen biết bà,
lại không có một thành kiến nào với một phụ huynh học sinh xa lạ. Hơn thế nữa,
chính tôi đã từng dùng hết sự dịu dàng khéo léo đề cao đức hy sinh của bà đối
với Viên, để khuyên răn Viên chăm chỉ học hành. Tuy thế mới thoạt nhìn, tôi ngờ
ngợ nhận thấy, mơ hồ thôi, có điều gì không hợp. Có thể tại vì mùi nước hoa hơi
nồng, có lẽ cũng là loại champange đắt tiền nhưng bà đã lạm dụng, đi quá trớn.
Ờ mà sao tôi lại khắt khe như thế được? Chính tôi, đôi lúc vào những ngày khó
ở, vẫn dùng loại nước hoa này. Tại sao tôi đột nhiên khó tính với người mẹ của
Viên. Có thể chuyện dùng nước hoa hay không, chưa thực sự đóng một tầm quan
trọng nào nếu tôi không cố phác họa một hình ảnh khác, hoàn toàn khác về bà.
Nghe Viên kể, tôi tưởng tượng ra một người đàn bà nhỏ thó, tóc rối, mắt buồn
hiu, ăn mặc lôi thôi nhưng còn đủ đơn giản sạch sẽ để giữ tư cách con nhà. Tôi
tưởng tượng một mẹ Việt Nam quên hết bản thân, quên hết cuộc đời mình để lo
lắng cho con cái. Trong trí tưởng tượng đầy sương trinh và nắng hồng của tôi,
người mẹ của Viên không bao giờ thèm dùng nước hoa. Nhưng nghĩ kỹ, có lẽ còn có
nhiều chi tiết đáng ngờ khác: cái lối thường xuyên đưa lưỡi liếm đôi môi dầy
cho luôn luôn ướt mọng, nũng nịu, nỗi lo lắng thái quá đến nỗi bàn tay cứ đưa
lên vuốt nhẹ mái tóc chải kỹ sợ rối theo gió... Nói tóm lại, người đàn bà đang
huyên thiên kể lể trước mặt tôi đây là một kẻ xa lạ, bị tôi từ khước, vì dám ra
ngoài những mẫu mực tự ý tôi qui định. Tiếng nói của bà hơi khao khao, đầm ấm,
như pha lẫn một khát vọng huyền bí và một mệt mỏii quyến rũ. Bà nói, bà nói
mãi. Tôi bất chợt chụp được một vài âm thanh, hơi lạnh mình vì giọng rã rời mà
thúc giục vời gọi:
.
"... Cô nghĩ mà
xem. Tôi goá bụa đơn chiếc. Anh ấy mất là khỏe thân cho riêng anh ấy, còn tôi
phải lo nuôi đám con dại. Ban đầu tôi cứ tưởng rồi ra trời đất sụp đổ hết. Tôi
biết lấy gì nuôi lũ trẻ đây? Tôi đập đầu vào quan tài anh ấy, tôi đòi nhảy
xuống cho người ta chôn chung một huyệt với anh ấy. Nhưng bà con hàng xóm cứ
khuyên răn mãi, bảo gắng sống mà nuôi con. Tôi sống được đến ngày nay, chịu
cực, chịu khổ, chỉ vì không nỡ bỏ chúng bơ vơ trên đời. Thế mà thằng quỉ sứ này
có thương tôi đâu. Tôi đi làm cả hai buổi, nhiều bữa giấy tờ ở sở làm không
xong, phải ở lại làm đến tám chín giờ tối. Tôi cứ nghĩ mình cực khổ thế, con
cái nó tự biết thương mẹ, chăm lo học hành. Không ngờ cả bọn a tòng với nhau.
Thằng anh đầu đàn bỏ học đi chơi, hai đứa em lại nói dối mẹ để che chở cho anh.
Nếu cảnh sát không bắt đám trẻ con cờ bạc du đãng đem về ty, nếu anh ty trưởng
không điện thoại cho hay, thì tôi cứ tin rằng con mình ngoan ngoãn. Trời ơi!
Tôi nghe điện thoại mà không tin tai mình. Trời đất đảo điên! Sụp hết, đổ
hết!..."
.
Tôi không thể tiếp tục
nghe cái máy phát thanh liên hồi tả oán nữa. Tôi tìm cách nói sang chuyện khác.
Viên vẫn nép sau mẹ, hai tay vo vạt áo và bàn chân di di lên khóm cát vươn vãi
trên nền xi măng. Tôi cắt ngang lời thiếu phụ nói với Viên:
"Đó, Viên thấy
không? Em không chăm học, làm khổ sở cho má. Hôm trước cô đã khuyên răn em
nhiều. Em chịu ngồi nghe. Cô nhớ em có khóc nữa. Thế mà tại sao bây giờ vẫn
quen đường cũ hở Viên? Em có thương má không?" Người mẹ quay lại
nhìn con. Viên đứng yên, không trả lời, cũng không gật đầu. Thiếu phụ lắc đầu
chán nản phân trần:
"Đấy, cô thấy
không? Nó cứng đầu, cứng cổ! Tôi đang làm ở sở mà phải xin phép ông chủ sự về
nhà, hỏi thằng Trung em nó, chỗ nó thường lui tới, bắt nó dẫn đến đây cho cô
dạy dỗ giùm..."
Chụp được cơ hội may
mắn, tôi mời khéo:
"Thôi, bà yên tâm
về sở làm việc đi. Tôi sẽ ráng tìm hiểu, khuyên lơn nó. Tuy ham chơi, nhưng
Viên nó thông minh và biết điều".
Thiếu phụ mừng rỡ, giọng
vồn vã:
"Tôi chỉ mong có
thế thôi! Trăm sự nhờ cô".
Bà quay lại đe dọa con
vài câu rồi ra về.
.
Viên không nói gì, cũng
không chào mẹ, theo tôi vào lớp. Lòng tôi hoang mang. Dáng điệu, cử chỉ, lời lẽ
của mẹ Viên cùng thái độ bất kính của đứa con phải có liên hệ xa gần nào đó. Có
cái gì không ổn giữa tình mẫu tử. Như tiếng máy xe lọc cọc, lọc cạch do một bộ
phận mòn cũ, hư nát. Thế thì thứ gì đã mòn cũ, hư nát trong gia đình goá bụa này?
Tôi dạy qua quít cho xong chuyện thấp thỏm chờ giờ ra chơi. Tôi giữ Viên ở lại.
Viên run sợ thật sự, mắt rươm rướm khi ngước lên cầu khẩn tha thứ. Tôi không
nói gì. Lấy kinh nghiệm mấy năm dạy học, tôi ngồi xuống bên Viên, sửa lại cái
cổ áo cáu bẩn, phủi bụi trên quần đùi xanh, vuốt ve cho mái tóc bù rối của Viên
thẳng lại. Kết quả như mọi lúc, Viên gục xuống khóc. Tôi tiếp tục vuốt tóc cậu
bé, nói thật nhẹ:
.
"Em cứ khóc đi!
Khóc cho thoả thuê đi! Cô không giận em đâu! Cô hiểu em, Viên có điều gì u uất
không thể nói được với ai, canh cánh bên lòng, giữ lại không nổi mà nói ra thì
không đành. Cô biết em sắp nói hết cho cô biết, phải thế không? Phải thế không
Viên?"
.
Viên khóc to hơn. Mấy
đứa học trò lấp ló nơi cửa sổ, gặp đôi mắt tôi lườm quở trách, vội vã lảng xa.
Rồi nước mắt cũng vơi, Viên thút thít, trong khi tôi vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Chờ
một lúc không được, tôi nói:
"Em đừng oán hận
má. Má la rầy em, bắt em đi học, chỉ vì mong sao cho em nên người. Một người mẹ
gương mẫu luôn luôn..."
Sự phẫn nộ oà vỡ. Viên
nói lớn, vẻ nóng nảy, thảng thốt khác thường:
"Cô đừng nói vậy.
Má em không xứng đáng. Bữa nào má cũng về lúc tối mịt và lúc nào cũng về có đàn
ông đi kèm. Má cười với họ, má đùa giỡn với họ, chính tai em nghe má gọi cái
ông lái xe Jeep xanh thường đưa má về là "cưng". Đưa cái xách cho em
"cưng"! Thằng Trung chưa biết gì cứ gọi là chú Thảo. Con bé Xíu nhờ
công giữ em được má cho tiền, ham tiền quên hết. Còn em, em lớn rồi,
em..."
Tôi kinh nhạc hỏi vội:
"Giữ em? Bé Xíu là
con út mà? Hôm trước Viên bảo thế. Viên ngước lên mắt còn đỏ và đôi má nhớp
nhúa còn rõ ngần nước mắt:
"Má đẻ thêm bé Chút
năm ngoái, thưa cô".
.
* *
Sáng nay Viên lại không
đến lớp. Tôi đành chịu thua vậy chứ biết làm thế nào. Tôi bất lực, không thể
làm gì được. Mỗi người có một cuộc đời. Tôi có nỗi lo riêng của tôi. Cu Tường
lại nóng mình. Bé Tí chụp vào cái tẹt mốt pha sữa, nước sôi làm phồng cả cánh
tay non. Tôi đã xót xa nhìn hai đứa con khóc lóc cả đêm qua. Nhà tôi làm việc
cực nhọc, tôi không dám đánh thức anh ấy dậy, đành phải lo âu một mình. Cho nên
dầu hơi thất vọng khi không thấy bóng Viên xếp hàng, tôi vẫn giữ được thản
nhiên.
.
Bà mẹ Viên lại tới. Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi! Ai không biết bà tảo tần nuôi con. Bà sinh con ra, có
gan sinh con ra, thì phải ráng mà nuôi chúng chứ! Nói với tôi làm gì! Tôi lạnh
nhạt hoàn toàn, và ngạc nhiên không hiểu tại sao người đàn bà đó có thể con cà
con kê một cách chân tình với một pho tượng.
.
"Có trời đất chứng
giám, tôi thương nó còn hơn cả tôi. Nó giống anh ấy như đúc. Nhiều lúc nhìn nó
nháy mắt, nhìn nó hờn dỗi, tôi cứ tưởng anh ấy sống lại, anh ấy chòng ghẹo tôi,
anh ấy giả vờ hờn dỗi tôi vào những ngày đầu yêu nhau. Tôi lo lắng cho nó, vậy
mà nó không biết nghĩ. Có trời mới hiểu tại sao nó lêu lổng chơi bời không
thương mẹ, thương em..."
Bực dọc quá, tôi nói:
"Thưa bà, có lẽ
Viên nó sợ hãi quá mức. Trẻ con hay có nhiều trái chứng. Tâm hồn nó mỏng manh
như sợi tơ sợi tóc, nhiều lúc xúc động quá nó có thể liều lĩnh. Tôi ngại hôm
qua bị bắt vào ty, ông ty trưởng có nặng lời quát tháo với nó chăng. Nó sợ quá
đâm liều".
Thiếu phụ vội cải chính:
"Không! Không bao
giờ. Tôi biết tính anh Thảo, xin lỗi ông trưởng ty, ông ấy luôn luôn hoà nhã
khả ái với tất cả mọi người. Không bao giờ ông ta dọa nạt nó. Mà thực ra, không
bao giờ Viên nó sợ ông ty".
Một ý định đanh ác thoạt
hiện, tôi mím môi trước khi dằn giọng:
"Bà nhớ lại xem, có
vô ý nặng lời với em Viên không? Trẻ mồ côi thường có một tâm tính nhạy cảm hơn
trẻ thường. Hoặc bà gay gắt với nó khi Viên xin tiền mua sách vở. Hoặc Viên vô
ý làm té bé Chút bà trừng phạt quá đáng?"
.
Thiếu phụ giật mình, vội
ngửng đầu lên nhìn tôi đăm đăm. Chưa bao giờ tôi thấy một đôi mắt bi phẫn như
vậy. Ở đó toát ra sự đau đớn cùng cực và sự giận dữ cùng cực. Như đôi mắt con
bò đã bị căng nọc xuống đất và bị cắt lìa khí quản. Tôi hơi lùi lại, hai bàn
tay nắm chặt vào vạt áo dài. Nhìn tôi một lúc thiếu phụ mới lắp bắp nói được:
"Anh ấy chết đi.
Tôi đã gắng nuôi con để quên. Để quên cô độc. Nhưng tôi mới có hai mươi tám
tuổi đầu... Tôi còn trẻ quá..."
.
Tôi cảm thấy ngộp thở,
như bước lùi vào một khoảng không. Tôi sợ. Tôi lùi lại phía cửa, lùi lại nữa.
Tôi không nghe thiếu phụ nói gì, nhưng đôi tay bà ta giơ tới trước, mắt đổ lửa
như muốn bóp chết hiện hình của nỗi cô độc là chính tôi. Khi lưng tôi chạm cánh
cửa đánh một tiếng rầm, thiếu phụ giật mình khựng lại khóc oà lên, rồi bỏ chạy
ra cổng.
.....
Tác giả: Nguyễn Mộng
Giác
..
(Học trò cũ sưu tầm)
..
(Học trò cũ sưu tầm)